Viên nén là gì? Các công bố khoa học về Viên nén

Viên nén là một dạng dược phẩm được tạo thành bằng cách nén một loại thuốc vào một hình dạng viên nhỏ và cứng. Quá trình này thường được thực hiện bằng cách sử ...

Viên nén là một dạng dược phẩm được tạo thành bằng cách nén một loại thuốc vào một hình dạng viên nhỏ và cứng. Quá trình này thường được thực hiện bằng cách sử dụng máy nén hoặc công nghệ nén tay. Viên nén có thể được ứng dụng trong nhiều loại dược phẩm khác nhau như viên nén đường, viên nén bao phim, viên nén dạng không bao phim,... Viên nén thường được sử dụng để cải thiện tính ổn định, hạn chế tác dụng phụ, và thuận tiện trong việc sử dụng và vận chuyển.
Viên nén là một dạng dược phẩm được tạo thành bằng việc nén một số liệu thành viên nhỏ và cứng có hình dạng và kích thước chuẩn. Quá trình này thường được thực hiện trong một máy nén, trong đó thuốc được đặt vào một khuôn nén và áp lực được áp dụng để nén thành viên. Điều này tạo ra viên nén có hình dạng và kích thước nhất định, dễ dàng để thuốc được cung cấp và sử dụng.

Các thành phần trong viên nén thường bao gồm:

1. Chất tạo thành viên: Chất này giúp kết dính các thành phần khác lại và làm cho viên nén cứng và chắc chắn. Các chất tạo thành viên thông thường là lactose, đường, cellulose hoặc các polymer như polyvinylpyrrolidone (PVP).

2. Thuốc: Đây là thành phần chính của viên nén, được chọn để đáp ứng mục đích điều trị hoặc dược liệu cụ thể. Thuốc có thể có dạng hạt, bột hoặc hỗn hợp.

3. Chất tăng cường: Một số viên nén có thể được tăng cường bằng cách thêm các chất tạo độ ổn định, chất hấp thụ nước, chất làm mềm hoặc chất bảo quản để nâng cao hiệu quả và độ bền của viên nén.

4. Chất phụ gia: Một số viên nén cũng có thể được bổ sung bằng các chất phụ gia như chất màu, chất làm bóng hoặc chất phân tán để cải thiện ngoại hình và khả năng nhận biết của viên nén.

Viên nén có nhiều lợi ích, bao gồm sự ổn định và chất lượng của thuốc đã được bảo đảm, thuận tiện trong việc sử dụng và bảo quản, có thể tiêu thụ một lượng chính xác thuốc mỗi lần sử dụng, và dễ dàng đóng gói và vận chuyển. Viên nén cũng cho phép kiểm soát chất lượng cao hơn và giảm thiểu biến đổi hóa học của thuốc so với các hình thức khác như bột hoặc dung dịch.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viên nén":

Kiến thức và Giảng dạy: Nền tảng của Cải cách mới Dịch bởi AI
HARVARD EDUCATIONAL REVIEW - Tập 57 Số 1 - Trang 1-23 - 1987

Lee S. Shulman xây dựng nền tảng cho cải cách giảng dạy dựa trên một quan niệm về giảng dạy nhấn mạnh đến sự hiểu biết và lập luận, sự biến đổi và sự phản ánh. "Sự nhấn mạnh này là hợp lý," ông viết, "bởi sự kiên quyết mà theo đó nghiên cứu và chính sách đã trắng trợn bỏ qua những khía cạnh của giảng dạy trong quá khứ." Để trình bày và biện minh cho quan điểm này, Shulman trả lời bốn câu hỏi: Các nguồn gốc của cơ sở tri thức cho giảng dạy là gì? Làm thế nào để có thể khái niệm hóa những nguồn này? Các quá trình lý luận và hành động sư phạm là gì? và Những hệ quả cho chính sách giảng dạy và cải cách giáo dục là gì? Các câu trả lời — được thông tin bởi triết học, tâm lý học và số lượng ngày càng tăng của nghiên cứu tình huống dựa trên những người thực hành trẻ tuổi và có kinh nghiệm — đi xa hơn nhiều so với những giả định và sáng kiến cải cách hiện tại. Kết quả đối với những người thực hành giáo dục, học giả và nhà hoạch định chính sách là sự chuyển hướng lớn trong cách giảng dạy được hiểu và giáo viên được đào tạo và đánh giá.

Bài báo này đã được chọn cho số đặc biệt tháng 11 năm 1986 về "Giáo viên, Giảng dạy, và Đào tạo Giáo viên", nhưng xuất hiện ở đây do những yêu cầu cấp bách của việc xuất bản.

#Giảng dạy #Cải cách giáo dục #Tri thức #Tư duy sư phạm #Chính sách giáo dục #Đào tạo giáo viên
Nghịch lý phòng ngừa chấn thương trong tập luyện: liệu các vận động viên có nên tập luyện thông minhkhắc nghiệt hơn? Dịch bởi AI
British Journal of Sports Medicine - Tập 50 Số 5 - Trang 273-280 - 2016
Thông tin nền

Có một tín điều cho rằng khối lượng tập luyện cao hơn sẽ dẫn đến tỷ lệ chấn thương cao hơn. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho thấy việc tập luyện có tác dụng bảo vệ chống lại chấn thương. Ví dụ, các vận động viên thể thao đồng đội đã thực hiện hơn 18 tuần tập luyện trước khi bị chấn thương ban đầu có nguy cơ thấp hơn trong việc gặp chấn thương tiếp theo, trong khi khối lượng tập luyện mãn tính cao đã được chứng minh là giảm nguy cơ chấn thương. Thứ hai, trong một loạt môn thể thao, các phẩm chất thể chất phát triển tốt liên quan đến nguy cơ chấn thương thấp hơn. Rõ ràng, để các vận động viên phát triển các khả năng thể chất cần thiết để cung cấp tác dụng bảo vệ chống lại chấn thương, họ phải chuẩn bị để tập luyện chăm chỉ. Cuối cùng, cũng có bằng chứng rằng việc tập luyện không đủ có thể làm gia tăng nguy cơ chấn thương. Tập hợp lại, những kết quả này nhấn mạnh rằng việc giảm khối lượng công việc có thể không phải luôn là cách tiếp cận tốt nhất để bảo vệ chống lại chấn thương.

Luận điểm chính

Bài báo này mô tả mô hình ‘Nghịch lý phòng ngừa chấn thương trong tập luyện’; một hiện tượng mà các vận động viên quen với khối lượng tập luyện cao lại gặp phải ít hơn các chấn thương so với các vận động viên tập luyện với khối lượng thấp hơn. Mô hình dựa trên bằng chứng cho thấy các chấn thương không tiếp xúc không phải do việc tập luyện tự thân , mà nhiều khả năng là do một chương trình tập luyện không phù hợp. Sự gia tăng khối lượng tập luyện quá mức và nhanh chóng có khả năng dẫn đến một tỷ lệ lớn các chấn thương không tiếp xúc, tổn thương mô mềm. Nếu khối lượng tập luyện là một yếu tố quyết định quan trọng của chấn thương, nó phải được đo đạc chính xác lên đến hai lần mỗi ngày và trong khoảng thời gian từ tuần này đến tháng khác (một mùa giải). Bài báo này đề xuất các cách theo dõi khối lượng tập luyện (‘nội bộ’ và ‘ngoại bộ’) và gợi ý việc ghi lại cả khối lượng tập luyện gần đây (‘cấp tính’) và khối lượng tập luyện trung bình (‘mãn tính’) để có thể phản ánh đúng gánh nặng tập luyện của người chơi. Tôi mô tả biến số quan trọng—tỷ lệ khối lượng cấp tính:mãn tính—như là một dự đoán thực tiễn tốt nhất của các chấn thương liên quan đến tập luyện. Điều này cung cấp cơ sở cho các can thiệp nhằm giảm nguy cơ của người chơi, và do đó, giảm thời gian bị chấn thương.

Tóm tắt

Việc lập kế hoạch và chỉ định khối lượng tập luyện cao một cách phù hợp nên cải thiện thể lực của các cầu thủ, và từ đó có thể bảo vệ chống lại chấn thương, cuối cùng dẫn đến (1) sức mạnh thể chất lớn hơn và khả năng phục hồi trong thi đấu, và (2) một tỷ lệ lớn hơn trong đội hình có sẵn cho việc lựa chọn mỗi tuần.

Bản đồ Kiểm Kê Đất Ngập Nước Đầu Tiên của Newfoundland với Độ Phân Giải Không Gian 10 m Sử Dụng Dữ Liệu Sentinel-1 và Sentinel-2 trên Nền tảng Điện Toán Đám Mây Google Earth Engine Dịch bởi AI
Remote Sensing - Tập 11 Số 1 - Trang 43

Đất ngập nước là một trong những hệ sinh thái quan trọng nhất, cung cấp môi trường sống lý tưởng cho một loạt lớn các loài thực vật và động vật. Lập bản đồ và mô hình hóa đất ngập nước sử dụng dữ liệu Quan Sát Trái Đất (EO) là điều thiết yếu cho quản lý tài nguyên thiên nhiên ở cả cấp độ khu vực và quốc gia. Tuy nhiên, việc lập bản đồ đất ngập nước chính xác là một thách thức, đặc biệt là trên quy mô lớn, do cảnh quan đa dạng và bị phân mảnh, cũng như sự tương đồng phổ giữa các lớp đất ngập nước khác nhau. Hiện tại, thiếu các kiểm kê đất ngập nước chính xác, nhất quán và toàn diện ở quy mô quốc gia hoặc tỉnh trên toàn cầu, với hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc tạo bản đồ quy mô địa phương từ dữ liệu viễn thám có giới hạn. Tận dụng sức mạnh tính toán của Google Earth Engine (GEE) và sự sẵn có của dữ liệu viễn thám có độ phân giải không gian cao được thu thập bởi Copernicus Sentinels, nghiên cứu này giới thiệu bản đồ kiểm kê đất ngập nước chi tiết đầu tiên ở cấp độ tỉnh của một trong các tỉnh giàu đất ngập nước nhất ở Canada về mặt mở rộng đất ngập nước. Cụ thể, dữ liệu tổng hợp từ nhiều năm radar khẩu độ tổng hợp (SAR) Sentinel-1 mùa hè và quang học Sentinel-2 được sử dụng để xác định sự phân bố không gian của năm lớp đất ngập nước và ba lớp không phải đất ngập nước trên Đảo Newfoundland, bao phủ diện tích xấp xỉ 106,000 km2. Các kết quả phân loại được đánh giá bằng cách sử dụng cả phân loại kiểu dựa trên điểm ảnh và thể đối tượng, sử dụng phương pháp rừng ngẫu nhiên (RF) được triển khai trên nền tảng GEE. Kết quả cho thấy sự vượt trội của phương pháp dựa trên đối tượng so với phương pháp phân loại dựa trên điểm ảnh cho lập bản đồ đất ngập nước. Mặc dù việc phân loại sử dụng dữ liệu quang học nhiều năm chính xác hơn so với SAR, nhưng việc kết hợp cả hai loại dữ liệu đã cải thiện đáng kể độ chính xác phân loại của các lớp đất ngập nước. Đặc biệt, độ chính xác tổng thể đạt 88,37% và hệ số Kappa đạt 0,85 với tổ hợp SAR/quang học nhiều năm sử dụng phân loại RF dựa trên đối tượng, trong đó tất cả các lớp đất ngập nước và không phải đất ngập nước đều được xác định chính xác với độ chính xác lần lượt trên 70% và 90%. Kết quả cho thấy sự chuyển đổi từ các sản phẩm và phương pháp tĩnh tiêu chuẩn sang việc tạo ra các bản đồ phủ sóng đất ngập nước động, theo yêu cầu, quy mô lớn thông qua các tài nguyên điện toán đám mây tiên tiến, đơn giản hóa truy cập và xử lý 'Dữ liệu Toàn Địa'. Ngoài ra, bản đồ kiểm kê ngày càng đòi hỏi của Newfoundland rất có giá trị và có thể được sử dụng bởi nhiều bên liên quan, bao gồm các chính phủ liên bang và tỉnh, các thành phố, các tổ chức phi chính phủ và các chuyên gia môi trường, chỉ đề cập đến một số ít.

#Bản đồ đất ngập nước #Newfoundland #Quan sát Trái Đất #Điện toán đám mây #Viễn thám #Radar khẩu độ tổng hợp #Sentinel-1 #Sentinel-2 #Phân loại rừng ngẫu nhiên #Độ phân giải không gian
Nguy cơ cần máy tạo nhịp vĩnh viễn sau khi cấy ghép van động mạch chủ qua da: Phân tích toàn diện tài liệu Dịch bởi AI
Journal of Cardiovascular Electrophysiology - Tập 23 Số 4 - Trang 391-397 - 2012

Nguy cơ cần máy tạo nhịp vĩnh viễn sau khi cấy ghép van động mạch chủ qua da.

Giáo dục: Việc yêu cầu máy tạo nhịp vĩnh viễn (PM) là một biến chứng đã được biết đến sau khi cấy ghép van động mạch chủ qua da (TAVI). Tuy nhiên, hiện không có dữ liệu hệ thống nào về biến chứng này.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố tiên đoán tiềm năng về việc yêu cầu PM vĩnh viễn sau TAVI dựa trên tài liệu đã xuất bản.

#máy tạo nhịp vĩnh viễn #cấy ghép van động mạch chủ qua da #biến chứng #tiên đoán
Đánh giá ảnh hưởng của thiết kế lấy mẫu huấn luyện đến hiệu suất của các bộ phân loại học máy trong lập bản đồ lớp phủ đất sử dụng dữ liệu viễn thám đa thời gian và nền tảng Google Earth Engine Dịch bởi AI
Remote Sensing - Tập 13 Số 8 - Trang 1433

Các bộ phân loại học máy ngày nay đang được sử dụng ngày càng nhiều cho việc lập bản đồ Sử dụng Đất và Phủ Lớp (LULC) từ hình ảnh viễn thám. Tuy nhiên, để chọn đúng bộ phân loại cần phải hiểu các yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu suất của chúng. Nghiên cứu hiện tại đã điều tra trước hết là tác động của thiết kế lấy mẫu huấn luyện đến kết quả phân loại thu được bởi bộ phân loại Random Forest (RF), và thứ hai là so sánh hiệu suất của nó với các bộ phân loại học máy khác cho việc lập bản đồ LULC sử dụng dữ liệu viễn thám vệ tinh đa thời gian và nền tảng Google Earth Engine (GEE). Chúng tôi đã đánh giá tác động của ba phương pháp lấy mẫu, cụ thể là Lấy Mẫu Ngẫu Nhiên Phân Tầng Đều (SRS(Eq)), Lấy Mẫu Ngẫu Nhiên Phân Tầng Theo Tỷ Lệ (SRS(Prop)), và Lấy Mẫu Hệ Thống Phân Tầng (SSS) đến kết quả phân loại thu được bởi mô hình LULC được huấn luyện RF. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng phương pháp SRS(Prop) có lợi cho các lớp lớn đồng thời đạt được độ chính xác tổng thể tốt. Phương pháp SRS(Eq) cung cấp độ chính xác tốt ở cấp độ lớp, ngay cả đối với các lớp thiểu số, trong khi phương pháp SSS hoạt động tốt cho các khu vực có độ biến đổi trong lớp lớn. Để đánh giá hiệu suất của các bộ phân loại học máy, RF vượt trội hơn Cây Phân Loại và Hồi Quy (CART), Máy Vector Hỗ Trợ (SVM), và Máy Vector Liên Quan (RVM) với mức độ tin cậy >95%. Hiệu suất của các bộ phân loại CART và SVM được thấy là tương tự nhau. RVM đạt được kết quả phân loại tốt với số lượng mẫu huấn luyện hạn chế.

#Lập bản đồ lớp phủ đất #học máy #Random Forest #viễn thám #lấy mẫu phân tầng #Google Earth Engine #Độ chính xác phân loại #dữ liệu đa thời gian
Cơ chế thất bại của nền móng có viền trong tình trạng nâng và nén Dịch bởi AI
International Journal of Physical Modelling in Geotechnics - Tập 12 Số 2 - Trang 47-62 - 2012

Các cơ chế thất bại động học của đất xung quanh nền móng có viền, được đặt trong đất sét nhẹ bị quá nén và chịu tải nén cũng như kéo không thoát nước, đã được nghiên cứu thông qua phân tích hình ảnh kỹ thuật số của các thí nghiệm ly tâm trống và được so sánh với các dự đoán từ phân tích phần tử hữu hạn. Phân tích các hình ảnh ghi lại trong các thí nghiệm ly tâm cho thấy rằng các cơ chế động học khá khác nhau kiểm soát thất bại ở trạng thái kéo và nén. Trong tình trạng kéo, một cơ chế chịu lực đáy đảo ngược liên quan đến một khối đất phía dưới nền móng đã được kích hoạt ngay cả khi tỷ lệ giữa độ sâu viền với đường kính nền móng chỉ là 0,1. Các hệ số khả năng chịu tải từ các thí nghiệm ly tâm đối với một tỷ lệ chôn sâu đã chọn tương tự trong trạng thái nén và nâng mặc dù có sự khác biệt về cơ chế thất bại liên quan. Sự so sánh giữa các cơ chế thất bại quan sát được trong các thí nghiệm ly tâm với các cơ chế được dự đoán bởi phân tích phần tử hữu hạn cho thấy có một số khác biệt rõ rệt, bất chấp sự phù hợp gần gũi của các hệ số khả năng chịu tải.

Cải thiện đáng kể về khả năng chịu đựng đường tiêu hóa tự báo cáo, chất lượng cuộc sống, sự hài lòng của bệnh nhân và sự tuân thủ điều trị với dạng viên nén lopinavir/ritonavir so với viên nang mềm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 5 Số 1 - 2008
Tóm tắt Nền tảng

Dạng viên nén của lopinavir được tăng cường ritonavir (LPV/r; Kaletra®) có nhiều ưu điểm hơn so với dạng viên nang mềm (SGC), bao gồm số lượng viên thuốc ít hơn, không cần bảo quản lạnh và không có hạn chế về chế độ ăn uống. Những lợi thế này có thể giúp cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân và do đó tăng cường thêm vào sự tuân thủ điều trị. Tuy nhiên, vẫn còn rất ít dữ liệu về sở thích của bệnh nhân và chỉ gần đây đã có dữ liệu so sánh về hiệu quả và khả năng dung nạp của LPV/r SGC so với dạng viên nén được trình bày tại một hội nghị quốc tế. Để giải quyết sự thiếu hụt này, chúng tôi đã tiến hành một khảo sát nghiên cứu thị trường nhằm đánh giá lợi ích khả năng dung nạp tiềm năng, sự hài lòng của bệnh nhân, sự thay đổi trong sự tuân thủ và sở thích dạng thuốc ở những bệnh nhân chuyển từ SGC sang dạng viên nén. Dữ liệu từ 332 bệnh nhân chuyển từ LPV/r SGC dùng hai lần một ngày (BID) sang dạng viên nén BID và 41 bệnh nhân chuyển từ LPV/r SGC BID hoặc một lần một ngày (QD) sang viên nén QD đã được phân tích.

Kết quả

Sự chuyển đổi từ SGC sang dạng viên nén của LPV/r có liên quan đến sự gia tăng sự hài lòng của bệnh nhân, khả năng dung nạp và sự tuân thủ điều trị tự báo cáo; các tác dụng phụ về đường tiêu hóa đã giảm. Ngoài ra, những người tham gia khảo sát cho biết họ thích dạng viên nén hơn dạng SGC.

Kết luận

Dạng viên nén LPV/r cung cấp cho bệnh nhân nhiễm HIV nhiều lợi ích hơn so với SGC về khả năng dung nạp và sự tiện lợi. Cần có những đánh giá bổ sung để xác định rõ hơn về hồ sơ khả năng dung nạp của viên nén LPV/r, bao gồm các nghiên cứu sử dụng liều dùng một lần mỗi ngày.

Tổng số: 245   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10